Thứ Sáu, 2 tháng 7, 2010

KỲ VỌNG ODA ?


Những ngày này, mọi kỳ vọng phát triển dường như đang được dồn hết cho viện trợ phát triển chính thức (ODA). Không thể phủ nhận, trong điều kiện đất nước còn nghèo, xuất phát điểm để phát triển rất thấp, ODA đã đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong vài thập niên qua, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, bên cạnh những cái lợi mà ai cũng thấy, sự quá lệ thuộc vào ODA cũng đem đến nhiều bất lợi như nhiều nhà phân tích đã chỉ ra (phải dành tiền để trả nợ lâu dài, sự lệ thuộc về giao thầu thi công, mua thiết bị, công nghệ, chi phí cao cho chuyên gia… và những nhượng bộ khác).
Ngoài ra, điều quan trọng không kém nhưng ít được nhắc tới là việc quá nhấn mạnh đến vai trò của ODA trong phát triển sẽ khiến chúng ta bỏ quên việc khai thác, bồi bổ nội lực trong dân. Nội lực được hiểu không chỉ là nguồn lực vật chất mà còn là tri thức và kỹ năng khoa học, công nghệ. Không chăm lo bồi bổ, khai thác nguồn nội lực này, về lâu dài đất nước có nguy cơ phụ thuộc bên ngoài về mọi mặt.
Một điều quan trọng khác là hiệu quả sử dụng ODA. Chính phủ và một số nhà tài trợ cho tới nay vẫn khẳng định Việt Nam sử dụng hiệu quả vốn vay ODA. Tuy nhiên, một số vụ tham nhũng liên quan đến ODA mà ai cũng biết và những số liệu khác khiến chúng ta không thể chủ quan. Một nghiên cứu về quản lý và sử dụng ODA của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương mới đây đã đi đến kết luận: “Tuy công tác thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam trong gần hai thập kỷ qua đã đạt được những kết quả tích cực, song vẫn còn tồn tại những hạn chế và bất cập, ảnh hưởng đến hiệu quả và tác động của ODA đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo của đất nước”.
Vẫn theo nghiên cứu này, những hạn chế và bất cập trong việc quản lý và sử dụng ODA thể hiện ở một số mặt chủ yếu, trong đó đáng kể nhất là sự chậm trễ trong việc giải ngân. Tỷ lệ giải ngân/ vốn cam kết có xu hướng ngày càng giảm sút trong những năm gần đây. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỷ lệ vốn ODA giải ngân/vốn ODA cam kết trong các năm từ 2006 đến 2009 đạt tương ứng là: 40,2%; 40,1%; 38,1% và 37,2%. Sự chậm trễ này diễn ra ở nhiều dự án quan trọng và ở hầu hết các bộ, ngành, địa phương. Tại Hội nghị CG giữa kỳ diễn ra tại Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) mới đây, WB đã chỉ ra 10 dự án “đặc biệt có vấn đề” về tiến độ giải ngân, thuộc sự quản lý của các bộ khác nhau. “Tình trạng giải ngân chậm đã không chỉ ảnh hưởng tới cân đối ngân sách chung và kế hoạch phát triển của các ngành, mà còn làm mất đi những lợi thế về chi phí vốn, lãng phí chi phí cơ hội của vốn ODA, lãng phí nguồn vốn giá rẻ như ODA”, công trình nghiên cứu nói trên khẳng định. Ngoài ra, còn có những bất cập về chính sách thu hút và sử dụng ODA, những bất cập trong quản lý nhà nước về vốn ODA, khu vực tư nhân chưa thể tiếp cận được nguồn vốn này trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước giải ngân rất thấp.
Tất cả những điều trên nhắc chúng ta rằng, trong khi tranh thủ nguồn ngoại lực ODA cho công cuộc phát triển đất nước, cần luôn nhớ nó không phải là “của trời cho”, vô điều kiện, có thể sử dụng phung phí, và cần luôn nhớ việc bồi bổ, khai thác nguồn nội lực mới là kế sách phát triển lâu dài.

HIỆN ĐẠI HÓA VÀ CÁI BẰNG DỎM


Là giám đốc sở, nếu ông không biết cái bằng tiến sĩ mà ông đã bỏ 17.000 đôla để mua từ cái công ty “Đại học Nam Thái Bình Dương” ấy là bằng dỏm thì điều ấy chứng tỏ ông rất thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, và như vậy liệu có xứng đáng làm giám đốc sở văn hóa ở đất nước đang muốn xây dựng “xã hội học tập” này?
          Là giám đốc sở, nếu ông biết đó là bằng dỏm mà vẫn mập mờ đánh lận con đen, báo với tổ chức như đó là bằng thiệt và dùng nó để thăng quan tiến chức thì ông đã gian dối với tổ chức và với mọi người, và càng không xứng làm giám đốc sở văn hóa ở đất nước ngàn năm văn hiến này.
          Là giám đốc sở văn hóa mà làm như ông, sao có thể trách học sinh cứ đến mùa thi lại chạy đến các “chợ phao”, sao có thể dẹp được các “chợ luận văn” phục vụ cho những kẻ muốn có bằng mà không muốn học?
          Và nếu không bị phát hiện, hẳn rồi ông cũng sẽ được mời, với tư cách tiến sĩ, tham gia hoặc đứng đầu hội đồng khoa học này, ủy ban thẩm định kia và đưa ra những lời vàng ngọc về đủ thứ giá trị, trong khi cái giá trị căn bản là sự trung thực, tấm bằng thiệt và tri thức thiệt thì ông không có.
          Đó là nói riêng về ông giám đốc sở Văn hóa Thể thao Du lịch tỉnh Phú Thọ. Nhưng, như mọi người đều biết, sử dụng bằng cấp dỏm hoặc bằng thiệt mà học dỏm đâu chỉ có ông giám đốc sở VHTTDL ở Phú Thọ. Không ít quan chức ở nhiều địa phương khác cũng đã và đang bỏ tiền mua bằng cấp để có điều kiện tiến thân cao hơn hoặc ít nhất cũng để chứng tỏ “giá trị” của mình. Chính ông giám đốc này cho biết có một số cán bộ ở Hà Nội, Thái Nguyên cũng “học” để lấy bằng như ông.
Giải thích về hiện tượng hay vấn nạn này, nhiều người đã phân tích về tâm lý sính bằng cấp, sính ngoại của người Việt Nam; về nghịch lý bằng cấp và chức vụ (được “cơ cấu” trước, có chức trước rồi mới lo “chạy” bằng); về quy trình tuyển chọn, đề bạt quan chức . Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nó còn nói lên một cái gì đó sâu xa hơn vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội Việt Nam. Đó là, trong khi chúng ta hô hào hiện đại hóa thì cái tâm lý xã hội thâm căn cố đế của chúng ta, kể cả trong  bộ máy công quyền vẫn chuộng hình thức, hư học, hư danh hơn là thực chất, thực học; chuộng bằng cấp, dù là bằng cấp dỏm, hơn là tri thức thiệt, năng lực thiệt. Hà Nội chẳng đã từng dự định buộc 100% cán bộ cốt cán phải có bằng tiến sĩ đó sao?
Nhưng làm sao có thể hiện đại hóa đất nước, hiện đại hóa xã hội bằng tri thức dỏm, bằng cấp dỏm, bằng những thứ hư danh? Có thể bỏ 17.000 đôla để mua cái bằng dỏm nhưng làm sao có thể bỏ tiền để mua tri thức thiệt nhằm hiện đại hóa đất nước nếu không đổ mồ hôi, sôi nước mắt học, học và học? Rồi đất nước sẽ đi về đâu, nền học thuật nước nhà sẽ đi về đâu nếu đất nước đầy rẫy những ông tiến sĩ có bằng dỏm hoặc bằng thật mà học dỏm? Hiện đại hóa chắc chắn là không, mà đất nước sẽ ngày càng đi đến chỗ lụn bại vì làm gì có tri thức thiệt, tầng lớp trí thức thiệt để tiến hành hiện đại hóa? Bởi hiện đại hóa, nhất là hiện đại hóa xã hội, là sự thay đổi từ bên trong, trên nền tảng tri thức tiếp thu được chứ làm gì có thứ hiện đại hóa vay mượn, càng không thể có thứ hiện đại hóa dựa trên tri thức dỏm, bằng cấp dỏm mua được bằng tiền.
Nền tảng tri thức của một đất nước, một xã hội như cái vốn để phát triển. Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia cho thấy nó còn quan trọng hơn tài nguyên và những nguồn lực vật chất khác. Nghĩ tới một ngày nào đó người chủ của đất nước này kiểm tra lại lưng vốn của mình nhằm chuẩn bị đầu tư lớn và nhận ra, thay vì những đồng tiền vàng lại chỉ là một mớ giấy lộn, lúc ấy chắc chỉ còn biết khóc ròng. Để không có cái ngày ấy, đã đến lúc xã hội chúng ta cần đoạn tuyệt với cái tâm lý chuộng hư danh, hình thức để theo đuổi những giá trị thực, bắt đầu bằng học thiệt, tri thức thiệt, bằng cấp thiệt.